Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Ngọc Thêm. Hiển thị tất cả bài đăng
"Cần cù là huyền thoại, hiếu học là ngộ nhận"
“Không thể tự khen là cần cù được”
Cần cù và hiếu học lâu nay được xem là niềm tự hào của người Việt chúng ta. Nay ông kết luận rằng những phẩm chất này chỉ là huyền thoại thì quả là một cú sốc...- Nếu chỉ là một công dân, đúng là tôi cũng nghĩ rằng cần cù và hiếu học là những phẩm chất đáng tự hào vì hầu như đâu đâu và ai ai cũng nói như vậy. Và có lẽ sẽ có cảm giác bất bình với kẻ dám kết luận rằng những phẩm chất này chỉ là huyền thoại.
Nhưng tôi là nhà khoa học và người làm khoa học thì phải có trách nhiệm đi tìm sự thật và tôn trọng sự thật.
Vậy thì về mặt khoa học, sự thật này như thế nào?
- Cần cù, hiếu học thường được xem là những phẩm chất chung của Đông Á. Cùng là cần cù, hiếu học nhìn bề ngoài thấy giống nhau, thực ra là giữa Việt Nam với Đông Bắc Á rất khác nhau.
Mọi phẩm chất của con người đều là do hoàn cảnh sống tạo nên. Điều kiện tự nhiên Đông Bắc Á rất khắc nghiệt nên người Đông Bắc Á thật sự cần cù − Nhật Bản, Hàn Quốc là những điển hình của đức tính cần cù ấy.
Còn Việt Nam và Đông Nam Á là khu vực vốn được thiên nhiên ưu đãi nên không thể có phẩm chất ấy.
Sở dĩ lâu nay các học giả Việt Nam và cả nhiều người nước ngoài nghĩ rằng người Việt cần cù là do bị đặc điểm của nghề trồng lúa nước đánh lừa.
Trồng lúa nước là nghề mang tính thời vụ rất cao. Gặp lúc gieo cấy hay vào vụ gặt thì hình ảnh dễ thấy là người nông dân Việt đầu hôm sớm mai bán mặt cho đất, bán lưng cho trời – đúng là cần cù thật. Nhưng xong việc thì lại chơi.
Khoảng thời gian giữa cấy và gặt rất dài, là lúc chúng ta nghỉ ngơi, ăn chơi liên miên: “Tháng giêng là tháng ăn chơi/ Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè/ Tháng tư đong đậu nấu chè/ Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm...”.
Bây giờ vẫn thế. Con người nông dân đi vào công sở, cộng với tổ chức quản lý kém..., nên người Việt về cơ bản vẫn ham chơi bời, lễ hội, đàn đúm, “buôn dưa lê” và nhậu nhẹt. Nên mới có tình trạng 30% công chức sáng cắp ô đi tối cắp ô về.
Ở một dân tộc cần cù thì các quán cà phê sẽ không đông khách đến tận 9 - 10h sáng, và buổi chiều thì từ 4h chiều trở đi các quán nhậu sẽ không nghẹt cứng hết cả như ở Việt Nam. Mà số lượng các quán cà phê và quán nhậu ở các thành phố Việt Nam thì rất nhiều.
Ở các đô thị Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… đều không có nhiều quán ăn chơi đến thế và không đông khách quanh năm suốt ngày đến thế.
Người Việt Nam có ham ăn đến thế không? Không hề. Đấy là ăn chơi, ăn để chơi chứ không phải ăn để làm việc. Tất nhiên là sống thì phải có ăn có chơi nhưng ham ăn chơi như thế thì không thể tự khen là cần cù được!
Hiếu học là sự ngộ nhận
Còn sự hiếu học thì sao, thưa ông? Tại sao ông cho rằng nó là huyền thoại chứ không phải là thực tại?- Hiếu học cũng được xem là một giá trị truyền thống của văn hóa Á Đông. Song cần phải phân biệt hiếu học với hiếu danh.
Lớp học thầy đồ xưa (Ảnh tư liệu)
Sự khác biệt giữa hiếu học với hiếu danh thể hiện ở chỗ người hiếu học đi học trước hết quan tâm đến việc nâng cao tri thức và năng lực, còn người hiếu danh đi học là nhằm để có địa vị cao trong xã hội.
Ở các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo đều có tình trạng hiếu danh này. Song ở các nước Đông Bắc Á, nhờ xã hội được quản lý tốt nên muốn có địa vị cao thì phải có tri thức. Cộng thêm lối tư duy của người Đông Bắc Á vừa có tính chủ toàn giống ta nhưng cũng vừa có tính phân tích giống phương Tây, đồng thời họ cũng là những dân tộc thực sự cần cù, cho nên để có danh, họ phải học hành đến nơi đến chốn.
Kết quả là trong lịch sử, các quốc gia Đông Bắc Á đều có những phát minh khoa học, những sáng tạo đóng góp vào quá trình phát triển của dân tộc và nhân loại.
Khác với Đông Bắc Á, người Việt đi học nhưng ít quan tâm đến việc tiếp thu kiến thức, tiếp thu phương pháp mà chỉ quan tâm nhiều đến việc lấy điểm, lấy bằng. Lấy được bằng rồi thì quan tâm đến việc dùng tấm bằng ấy để lấy được một địa vị, bất kể địa vị đó có phù hợp với năng lực sở trường của mình hay không.
Thời xưa người Việt đi học chỉ cốt để làm quan, cốt thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. Vì vậy mà câu dạy con thường gặp là “Không học thì lớn lên đi cày!”. Thời Lê - Trịnh có 724 người đỗ tiến sĩ thì có tới 712 người (chiếm 98,3%) làm quan, 12 người còn lại thuộc số chưa kịp vinh quy đã mất hoặc không có thông tin.
Trên báo Cứu quốc ra ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra chuyện một ông chủ tịch Ủy ban xã nọ khoe rằng thôn ông trong tháng vừa qua đã bán các chức vị như chánh phó lý, khán thủ..., thu được một món tiền khá lớn. Người đã kịch liệt phê phán việc này và nói rằng “Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh”.
Thời nay, sau khi tốt nghiệp THPT, ai cũng cố gắng vào đại học, nhưng vào được rồi thì phần lớn sinh viên đều không muốn phải đọc nhiều, học nhiều, trong khi thích tranh thủ kiếm thêm vài cái bằng nữa. Nhiều người đi học hệ tại chức (vừa học vừa làm), thậm chí cả cao học, nghiên cứu sinh, cũng chỉ cốt lấy bằng nên mới sinh ra nạn học giả bằng thật...
Sở dĩ người Việt đi học mà không coi trọng tiếp thu kiến thức, phương pháp là do hàng loạt nguyên nhân, đều có nguồn gốc từ văn hóa truyền thống. Thứ nhất, là do tầm nhìn gần - xưa học để đi thi, làm quan, nay học để đi thi, lấy bằng.
Thứ hai, là do bệnh đối phó - chỉ tập trung vào mục tiêu trước mắt là đi thi.
Thứ ba, là do bệnh sĩ diện – “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, không “vạch áo cho người xem lưng” - nên học mà dấu dốt, không hỏi.
Thứ tư, là do tổ chức xã hội kém, quản lý không nghiêm, cùng với lối sống trọng tình nên chỉ cần có bằng cấp và có quan hệ tốt thì dù dốt, dù năng lực kém cũng vẫn có thể có được địa vị cao trong xã hội.
Kết quả là trong lịch sử của mình, Việt Nam không có một phát minh khoa học nào. Những phát minh khoa học, nếu có, đều được hoàn thành trong môi trường nước ngoài, như Hồ Nguyên Trừng với súng thần công, Nguyễn An với thiên tài kiến trúc đều hoàn thành ở Trung Quốc.
Những nhà khoa học, nghệ sĩ đạt tới tầm cỡ thế giới đều là nhờ phương Tây đào tạo - Ngô Bảo Châu được đào tạo ở Pháp, Đặng Thái Sơn được đào tạo ở Nga.
Các thói hư tật xấu chủ yếu trong đời sống văn hóa Việt Nam đương đại (Trần Ngọc Thêm 2015)
Giáo dục nhìn từ văn hóa
GS Trần Ngọc Thêm cho rằng “Bệnh ưa thành tích và bệnh giả dối trong giáo dục rất nặng. Người Việt có câu “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” nhưng ở trường thầy cô dạy phải biết khôn để giành phần thắng, đóng kịch trong những tiết dự giờ, những lúc có tranh tra... Học sinh học yếu kém cỡ nào thì cũng lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp cao ngất ngưởng"…
"Sự dối trá phổ biến đến nỗi người lớn quên rằng mình đang nói dối. Giả dối trong suy nghĩ thì tự an ủi mình, giả dối trong lời nói được khen là khéo léo, giả dối trong hành động được xem là khôn ngoan”.
Do đâu mà ông lại nặng lời với giáo dục như vậy?
- Không nên nói tôi nặng lời hay không, mà hãy kiểm tra xem điều tôi nói có đúng hay không.
Chỉ cần vào mạng gõ từ khóa “học thuê”, ta sẽ thấy tràn ngập các thông tin như: “Học hộ, học thuê: Nghề mới cho cử nhân thất nghiệp”, “Hội Nhận Đi Học Thuê Đại Học”, “Dịch vụ học hộ, học thuê tại Hà Nội”, “Dịch vụ học, thi hộ tràn lan trong giới sinh viên”, “Nhức nhối nạn học thuê thi hộ”...
Nạn học thuê, thi thuê, thuê viết luận văn, luận án; nạn mua bán bằng cấp... trong nhà trường và các nạn chạy bằng cấp, chạy chức, chạy quyền, chạy huân chương... ngoài xã hội chẳng phải chính là những biểu hiện của bệnh thành tích, bệnh giả dối, bệnh hiếu danh đấy sao?
Vậy, theo ông, tại sao nền giáo dục của chúng ta lại trở nên như vậy?
- Đúng là nền giáo dục của chúng ta vốn không đến nỗi như vậy. Mỗi giai đoạn lịch sử của một xã hội đều tạo ra một nền giáo dục đáp ứng những yêu cầu lịch sử của mình. Nền giáo dục truyền thống của Việt Nam đã từng phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội Việt Nam truyền thống...
Nhu cầu của xã hội Việt Nam truyền thống là gì và nền giáo dục truyền thống có đặc điểm gì, thưa ông?
- Toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một nền văn minh lúa nước. Nghề trồng lúa nước là nghề phải lệ thuộc vào thiên nhiên ở mức độ cao nhất. Người trồng lúa nước gắn bó với đất, với làng, cả đời không ra khỏi làng, lúc nào cũng chỉ mong được yên ổn. Văn hóa của người trồng lúa nước là văn hóa rất âm tính, văn hóa hướng đến ổn định.
Để đáp ứng nhu cầu của một xã hội ưa ổn định thì nền giáo dục có mục tiêu là đào tạo ra những con người giúp xã hội giữ được ổn định. Xã hội ổn định cần người biết nghe lời, vâng lời.
Biết nghe lời, vâng lời được gọi là “ngoan” - "con cãi cha mẹ trăm đường con hư". Vì vậy giáo dục truyền thống của Việt Nam từ gia đình ra đến xã hội, vào đến nhà trường đều chỉ khuyến khích phẩm chất ngoan, vâng lời. Trong gia đình dạy con cái vâng lời cha mẹ, ra ngoài xã hội khuyến khích người dưới vâng lời người trên.
Như vậy, “ngoan” là phẩm chất mục tiêu của giáo dục Việt Nam truyền thống. Còn năng lực mà giáo dục Việt Nam truyền thống hướng tới là gì? Đó là “giỏi”.
Giỏi được hiểu là thuộc bài. “Thuộc” đây là học thuộc lòng. Ở nhà, cha mẹ hỏi “Con đã học thuộc bài chưa?”. Đến trường, thầy cô hỏi “Có trò nào chưa thuộc bài giơ tay?”. Thuộc bài thì khi trả bài phải làm theo đúng mẫu - cái gì cũng có “mẫu”: bài tập mẫu, bài văn mẫu... - sẽ đạt thành tích cao.
Triết lý giáo dục Việt Nam truyền thống có thể tóm gọn trong 4 chữ là “con ngoan - trò giỏi”. Con ngoan trò giỏi là mục đích phấn đấu của mỗi học sinh, đó là con đường dẫn tới thành công. Thành công ngày xưa là thi đỗ làm quan, bây giờ là thi đỗ lấy bằng. Mục đích chỉ có thế, rất cụ thể và rất thiển cận.
Kết quả và hậu quả của "con ngoan trò giỏi"
Triết lý giáo dục “con ngoan trò giỏi” đã mang lại những kết quả gì, thưa ông?
- Trong gia đình, mục tiêu ngoan theo nghĩa biết vâng lời khiến cho người Việt Nam từ xưa đến nay hầu như chưa bao giờ được là chính mình.
Đứa con khi còn nhỏ đi học vì cha mẹ, chọn trường chọn nghề theo ý cha mẹ, lấy vợ vì cha mẹ, đẻ con, nuôi con có khi cũng vì cha mẹ, theo ý cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sống thì dù có lên ông lên bà rồi nhưng làm gì cũng vẫn phải hỏi ý kiến các cụ.
Nhờ thế mà có kết quả là gia đình cực kỳ ổn định, êm thấm, dù đôi khi chứa đựng cả một bi kịch bên trong.
Trong nhà trường, mục tiêu giỏi theo nghĩa thuộc bài đã đẻ ra các căn bệnh học gạo, học tủ, học lệch..., đẻ ra nghề luyện thi và các lò luyện thi... Nhờ thế mà có nhiều người đỗ đạt, nhận bằng. Xã hội có nhiều người thành đạt nhờ thuộc bài và biết vâng lời như thế là một xã hội rất ổn định.
Tóm lại, triết lý “con ngoan trò giỏi” đã giúp cho Việt Nam trong một thời gian dài có một nền văn hóa cực kỳ ổn định mà không một cuộc xâm lăng nào có thể phá đổ. Nền giáo dục theo triết lý “con ngoan trò giỏi” đã thực hiện được sứ mệnh xây dựng văn hóa bảo tồn đất nước, chống ngoại xâm.
Và ngày nay triết lý “con ngoan trò giỏi” để lại những hậu quả gì?
- Từ sau đổi mới chúng ta hướng đến một xã hội phát triển. Từ truyền thống “trọng tĩnh”, ở một số phương diện nào đó chúng ta đã chuyển sang “trọng động”. Ngày xưa giàu có phải giấu đi nhưng giờ thì khoe ra, phải tự hào. Dân giàu nước mạnh, triết lý sống đã thay đổi.
Trong khi đó thì triết lý giáo dục vẫn như cũ, không thay đổi gì cả. Với triết lý “con ngoan trò giỏi” thì mọi thứ đều bị rập khuôn (bài mẫu, cách giải mẫu, đề mẫu...), mọi hoạt động đều mang tính đối phó.
Sự độc lập suy nghĩ có thể được khuyến khích một cách hình thức, còn thực chất là thường bị thủ tiêu. Sự sáng tạo thường bị dập tắt. Độc lập suy nghĩ tất sẽ hình thành thói quen phản biện, mà phản biện thì sẽ không còn ngoan và biết vâng lời. Sáng tạo thì sẽ mới lạ, độc đáo, không theo khuôn mẫu nào. Không theo mẫu, không đúng đáp án là không thuộc bài, ít thầy cô dám xem là trò giỏi.
Để yên ổn, ổn định thì mọi người phải giống nhau. Nếu trồi lên khác người thì sẽ phá vỡ sự ổn định và do vậy sẽ bị dập xuống…
Nền giáo dục của chúng ta đã tạo được một số trường chuyên rất nổi tiếng. Các trường này có thể có tỉ lệ 100% (hoặc gần 100%) thi đỗ đại học, có thể có nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế. Những học sinh này đều là những người rất giỏi, thông minh, nhưng điểm lại hầu như chẳng có mấy ai trở thành nhà khoa học lớn.
Những tài năng như GS.VS. Trần Đại Nghĩa, GS. nhạc sĩ Trần Văn Khê, GS. Ngô Bảo Châu…, nếu không được đào tạo tiếp nhiều năm ở phương Tây thì chắc cũng chẳng thành danh.
Văn hóa phương Tây là văn hóa hướng đến phát triển nên xã hội phương Tây khuyến khích học trò tranh luận, phản biện. Có phản biện, có tranh luận thì mới có phát triển.
Nhu cầu xã hội của Việt Nam thời nay là phát triển, nhưng nền giáo dục vẫn bị triết lý giáo dục thuở xưa chi phối, không thay đổi bao nhiêu, cho nên không còn thích hợp.
Cần có quan niệm khác về "con ngoan trò giỏi"? (Ảnh Đinh Quang Tuấn)
Cải cách giáo dục cần bắt đầu từ triết lý
Ông nói rằng giáo dục vẫn không thay đổi gì cả, trong khi giáo dục đã và đang trải qua những cuộc cải cách, đổi mới đấy chứ?
- Tôi nói giáo dục không thay đổi là nói về triết lý giáo dục.
Trong khi các cuộc cải cách giáo dục lâu nay chỉ lo thay đổi những cái bề ngoài như cấu trúc hệ thống (10 năm, 12 năm); chương trình (thay đổi số môn bắt buộc/ tự chọn, có hay không có phân ban); SGK (mỗi lần lại tổ chức viết lại SGK); phương thức học (niên chế hay tín chỉ, thầy hay trò là trung tâm), phương thức thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh đại học (Bộ hay trường ra đề, thi riêng hay thi gộp)...
Mọi thứ chúng ta đều có nghiên cứu, tham khảo, đi học thế giới.
Học theo thế giới trong khi điều quan trọng nhất rất ít được để ý là xuất phát điểm của thế giới rất khác với ta. Những nền giáo dục tiên tiến của các nước phát triển xây dựng trên xuất phát điểm là họ đã có một xã hội đô thị hóa rồi, công nghiệp hóa rồi, bây giờ người ta chỉ còn lo hiện đại hóa và hội nhập.
Còn xuất phát điểm của chúng ta là xã hội nông thôn, con người nông dân. Mà giữa nông thôn với đô thị, nông dân với thị dân, nông dân với công nhân thì văn hóa (suy nghĩ, hành động, ứng xử...) khác nhau rất nhiều. Tức là chúng ta bị hụt hẫng, có một khoảng cách rất xa về văn hóa - con người.
Ở các nước phát triển, khi người ta đã có xã hội công nghiệp - đô thị rồi thì con người rất tự giác, trung thực, tổ chức xã hội rất ổn định, nề nếp. Dễ hiểu là vì sao người ta chỉ cần lo phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.
Còn chúng ta không được như vậy… Thế nên, có đổ bao nhiêu tiền vào giáo dục cũng như muối bỏ bể. Bởi khoảng hụt hẫng giữa ta và thế giới là hụt hẫng về văn hóa - con người, chứ không phải là chương trình, SGK, càng không phải là tiền bạc. Mà xây dựng văn hóa - con người với những phẩm chất cần có của một xã hội đô thị và công nghiệp thì phải bắt đầu từ việc thay đổi một cách cơ bản triết lý giáo dục.
Trong các cuộc cải cách giáo dục cũng đã có bàn đến triết lý giáo dục, có đề ra một loạt những phẩm chất muốn hướng tới. Ông có ý kiến gì về điều này?
- Những phẩm chất và triết lý từng được nêu ra đều là tham khảo của thế giới.
Chẳng hạn, triết lý giáo dục mà nhiều người thường nhắc đến là triết lý do UNESCO đề xuất: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Rất hay, rất thực tế, nhưng là thực tế phù hợp với xuất phát điểm của thế giới chứ không phù hợp với xuất phát điểm của ta, vì vậy mà càng cải cách càng rối.
Thực tế phù hợp với xuất phát điểm của chúng ta là như thế nào, thưa ông?
- Nếu xuất phát điểm của chúng ta là văn hóa - con người nông nghiệp - nông thôn và triết lý giáo dục xây dựng nên văn hóa - con người ấy là “con ngoan, trò giỏi”, thì cần xây dựng một triết lý mới bám sát vào thực tế ấy mới tạo nên được sự thay đổi. Con ngoan cần đổi thành con có bản lĩnh, trò giỏi cần đổi thành trò sáng tạo.
Hệ giá trị Việt Nam truyền thống cốt lõi (Trần Ngọc Thêm 2015)
Bởi vì nếu ngoan là biết vâng lời, thì có bản lĩnh là biết và dám phản biện.
Cần dạy cho trẻ em suy nghĩ bằng cái đầu của mình về tất cả những gì mà cha mẹ, thầy cô nói ra, về mọi thứ mà các em quan sát thấy ngoài xã hội.
Dạy cho các em cách suy nghĩ, cách bình luận, phê phán, đưa ra ý kiến của mình, tức là sáng tạo. Giỏi không phải theo kiểu học thuộc bài nữa mà có ý kiến riêng, có tìm tòi, tức là sáng tạo.
Cha mẹ, thầy cô phải khuyến khích điều đó. Tập cho trẻ cách tư duy sao cho sắc sảo, lập luận sao cho chặt chẽ, thuyết phục.
Bản lĩnh là “dũng”, sáng tạo là “trí”, mang cái “trí” và “dũng” ấy phục vụ cho cộng đồng là “nhân”.
Đi đến ba chữ “dũng-trí-nhân” không phải là trở lại với Nho giáo (kiểu Hán Nho: “Nhân-lễ-nghĩa-trí-tín”), cũng không hoàn toàn là trở lại với Khổng tử.
Khổng tử bắt đầu bằng “nhân” vì văn hóa phương Bắc vốn quá thiên về dũng mà thiếu tình người. Còn văn hóa chúng ta thì ngược lại, mọi thứ đều lấy tình cảm làm đầu nên phải bắt đầu từ “dũng”.
10 giá trị cốt lõi để “lấp khoảng trống”
Hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm (Trần Ngọc Thêm 2015)
Vậy thì những giá trị nào mà con người Việt Nam cần có trong giai đoạn hiện nay, cũng như để hướng tới sự hội nhập toàn cầu, thưa ông?
- Trong công trình của mình, tôi có đề xuất hệ giá trị định hướng cốt lõi toàn diện gồm 35 giá trị, và hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm gồm mười giá trị.
Mười giá trị này chia thành năm cặp, bao gồm một cặp giá trị xã hội và bốn cặp giá trị cá nhân.
Cặp hai giá trị xã hội “dân chủ” và “pháp quyền” là cặp rất quan trọng. Dân chủ là tổ chức xã hội từ dưới lên trên. Pháp quyền là tổ chức xã hội từ trên xuống dưới. Quản lý phải theo đúng luật, mọi thứ tình cảm phải để ra ngoài. Thực hiện được cặp giá trị xã hội này sẽ là nền tảng cho việc thực hiện những giá trị khác, và bảo đảm cho việc lấp đầy khoảng hụt hẫng về văn hóa - con người.
Còn lại bốn cặp giá trị con người cá nhân là gì?
- Cặp thứ nhất là nhân ái và yêu nước. Đây là hai giá trị truyền thống điển hình, nhưng phải thay đổi nội hàm của nó. Yêu nước truyền thống là yêu nước trong chiến tranh. Yêu nước mới phải là cả trong chiến tranh và hòa bình. Nhân ái truyền thống là nhân ái của văn hóa làng xã giữa những người quen thân nhau, với người lạ thì vô cảm. Nhân ái mới phải là nhân ái trên tinh thần trách nhiệm, ý thức xã hội, đi ra đường cũng phải thương yêu giúp đỡ nhau.
Cặp thứ hai là trung thực và bản lĩnh. Thời hội nhập con người rất cần những giá trị này; không trung thực không làm việc được với ai, không có niềm tin làm gì có bạn bè. Và để trung thực cần phải bản lĩnh, biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình.
Cặp thứ ba là trách nhiệm và hợp tác, là hai giá trị của con người trong quan hệ với đồng loại.
Cặp thứ tư là tính khoa học và sáng tạo. Thời buổi kinh tế tri thức làm việc phải khoa học, cái gì cũng phải xem xét tính toán cân nhắc sao cho logic chặt chẽ.
Năm cặp giá trị này là những giá trị tối thiểu; tùy theo yêu cầu cụ thể, có thể có những bổ sung. Năm cặp giá trị này cần được thực hiện không chỉ trong giáo dục mà cần đưa vào tất cả các cơ quan đoàn thể, các cấp các ngành. Nếu đâu đâu cũng thực hiện được năm cặp giá trị này, chắc chắn sẽ thành công.
Xin cảm ơn ông.
GS. Nguyễn Thế Hữu, nguyên Giám đốc ĐH Huế, có bày tỏ sự ngạc nhiên khi giáo dục của chúng ta không nhắc đến phẩm chất cao thượng của con người. Ông Hữu đặt câu hỏi: “Vì chúng ta quên hay vì chúng ta không còn lòng tin con người có thể cao thượng?”.
Nếu câu hỏi này đặt ra cho ông, ông sẽ trả lời như thế nào?
- Tôi không thích lắm phẩm chất “cao thượng”. Tôi thích từ mà đạo diễn Trần Văn Thủy từng dùng làm tiêu đề cho phim của mình hơn – đó là sự “tử tế”. “Cao thượng” xác lập vị thế đứng trên và cho đi. Còn “tử tế” là quan hệ giữa những người cùng chung sống.
Văn hóa âm tính hay nói đến sự cho đi, nhưng thực ra cho đi vẫn chứa đựng suy nghĩ về lấy lại. Ở Việt Nam ta, mỗi khi nhà ai có cưới hỏi, tang ma thì mọi người thân quen đều xúm lại giúp đỡ. Nhưng đừng quên rằng sau mỗi cuộc tang ma hay hôn nhân, gia chủ sẽ phải ngồi lại ghi sổ từng người một đã giúp mình bao nhiêu, để sau này còn có trách nhiệm trả lại bằng hoặc cao hơn.
Vì sao người Việt Nam ngồi ăn với nhau anh nào cũng tranh nhau trả tiền? Có phải hoàn toàn vì cao thượng hay không? Thực ra là vì trong tiềm thức có nguyên nhân từ văn hóa: Người trồng lúa nước vốn ở yên một chỗ, gắn bó lâu dài. Trong quan hệ ngang bằng, ai chi tiền thì người đó nắm lợi thế, tạo ra ơn nghĩa để thắt chặt quan hệ. Người kia mang mặc cảm của người mắc nợ và phải tìm cơ hội để mời lại. Nếu có người nào đi ăn mà cứ để người khác trả tiền vài lần thì sẽ bị mang tiếng là keo kiệt, “ăn chùa”.
Còn người Phương Tây cùng ăn với nhau xong thì cưa đôi, phần ai người ấy trả, rất tự nhiên và vô tư, vì văn hóa của họ là văn hóa đi, con người luôn di chuyển. Hôm nay gặp nhau đây mà có khi không có cơ hội gặp nhau lần thứ hai, vì vậy ứng xử sòng phẳng, không nợ nần, sẽ khiến cho cả hai đều thấy thoải mái.
Nếu câu hỏi này đặt ra cho ông, ông sẽ trả lời như thế nào?
- Tôi không thích lắm phẩm chất “cao thượng”. Tôi thích từ mà đạo diễn Trần Văn Thủy từng dùng làm tiêu đề cho phim của mình hơn – đó là sự “tử tế”. “Cao thượng” xác lập vị thế đứng trên và cho đi. Còn “tử tế” là quan hệ giữa những người cùng chung sống.
Văn hóa âm tính hay nói đến sự cho đi, nhưng thực ra cho đi vẫn chứa đựng suy nghĩ về lấy lại. Ở Việt Nam ta, mỗi khi nhà ai có cưới hỏi, tang ma thì mọi người thân quen đều xúm lại giúp đỡ. Nhưng đừng quên rằng sau mỗi cuộc tang ma hay hôn nhân, gia chủ sẽ phải ngồi lại ghi sổ từng người một đã giúp mình bao nhiêu, để sau này còn có trách nhiệm trả lại bằng hoặc cao hơn.
Vì sao người Việt Nam ngồi ăn với nhau anh nào cũng tranh nhau trả tiền? Có phải hoàn toàn vì cao thượng hay không? Thực ra là vì trong tiềm thức có nguyên nhân từ văn hóa: Người trồng lúa nước vốn ở yên một chỗ, gắn bó lâu dài. Trong quan hệ ngang bằng, ai chi tiền thì người đó nắm lợi thế, tạo ra ơn nghĩa để thắt chặt quan hệ. Người kia mang mặc cảm của người mắc nợ và phải tìm cơ hội để mời lại. Nếu có người nào đi ăn mà cứ để người khác trả tiền vài lần thì sẽ bị mang tiếng là keo kiệt, “ăn chùa”.
Còn người Phương Tây cùng ăn với nhau xong thì cưa đôi, phần ai người ấy trả, rất tự nhiên và vô tư, vì văn hóa của họ là văn hóa đi, con người luôn di chuyển. Hôm nay gặp nhau đây mà có khi không có cơ hội gặp nhau lần thứ hai, vì vậy ứng xử sòng phẳng, không nợ nần, sẽ khiến cho cả hai đều thấy thoải mái.
Chi Mai (Vietnamnet) thực hiện
Xem thêm trao đổi của Lương Hoài Nam: Người Việt có quan tâm đến 'giáo dục thật'?
Giáo sư Cao Xuân Hạo, VTV và văn hoá tang lễ
Hôm nay ngứa ngoáy thế quái nào mà đọc thấy cái bài viết của ông Trần Ngọc Thêm (nói riêng là mình khoái cái ông Thêm này ở chủ đề văn hoá lúa nước của người Việt) thế nên tò mò đọc, đọc xong lộn hết cả ruột vì cái "văn hoá đẳng cấp" của cái nước Việt chúng ta nên cóp-pi rồi pót lại ở đây để hầu quí bạn ghé thăm đọc chơi.
GS. Cao Xuân Hạo
TỪ CHUYỆN GS. CAO XUÂN HẠO VÀ ĐÀI TRUYỀN HÌNH VTV, BÀN VỀ VĂN HOÁ TANG LỄ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Đại học Quốc gia TP. HCM
Ghi chú của tác giả: Đây và version 2.0 của bài viết về GS. Cao Xuân Hạo và đài VTV (sau khi thẩm tra lại các chi tiết và suy nghĩ thêm về khía cạnh văn hoá học của vấn đề).
------------------------------
I- SỰ KIỆN
Chiều 24-10-2007 vừa qua tôi đi viếng GS. Cao Xuân Hạo về. Lòng thấy buồn. Phần buồn vì thương tiếc Anh. Phần buồn vì suy nghĩ lan man quanh chuyện "văn hoá tang lễ".
Số là sau khi vào viếng GS. Cao Xuân Hạo ra PGS.TS. Hoàng Dũng (một thành viên của Ban tang lễ) đã kể cho tôi nghe câu chuyện về "bếp núc" của tang lễ này.
Chuyện rằng hôm trước anh - Hoàng Dũng - mang giấy báo tử và bản tin buồn về sự ra đi của GS. Cao Xuân Hạo do Ban tang lễ và gia đình soạn thảo tới Văn phòng đại diện Đài truyền hình VTV để liên hệ đăng cáo phó.
Sau khi xem xong hai thứ giấy tờ cô nhân viên tiếp khách băn khoăn hỏi: "Thưa bác (PGS.TS. Hoàng Dũng tuy chưa già nhưng tóc đã bạc trắng cả) bác còn thứ giấy tờ nào nữa không?"
"Tôi không hiểu - PGS. Hoàng Dũng trả lời - tôi nghĩ hai thứ giấy này và danh tiếng của GS. Cao Xuân Hạo đã là quá đủ. Ý chị muốn hỏi loại giấy nào?"
"Cháu muốn nói đến giấy chứng nhận 45 năm tuổi Đảng. VTV chỉ đăng cáo phó cho những người có 45 năm tuổi Đảng (trở lên?). Bác không biết chứ mỗi phút lên hình ở đài cháu là tiền cả đấy. Nếu bác đăng quảng cáo thì phải tốn 25-30 triệu còn nếu có giấy chứng nhận 45 năm tuổi Đảng thì chỉ mất có 300 nghìn đồng thôi".
Một vị giáo sư đến viếng có mặt lúc đó bèn cho biết thêm là mấy tháng trước khi PGS.TSKH. Nguyễn Hữu Đức - một nhà toán học đương kim Hiệu trưởng Trường đại học Đà Lạt - qua đời Trường đại học Đà Lạt đã không thể đăng tin buồn trên VTV cũng vì chính cái quy định 45 năm tuổi Đảng đó nên đành phải đăng cáo phó trên Đài truyền hình Hà Nội để bạn bè và đồng nghiệp trên đất Bắc biết tin.
PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ một thành viên khác trong Ban tang lễ GS. Cao Xuân Hạo cũng thông tin rằng vừa trong tuần trước ông Trần Duy Châu một cán bộ giảng dạy văn học lâu năm nguyên phó hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM 58 tuổi Đảng đã không thể đưa lên Nghĩa trang thành phố ở Thủ Đức mà phải đưa về Củ Chi vì có quy định là Nghĩa trang thành phố ở Thủ Đức chỉ dành cho những người có 60 năm tuổi Đảng mà ông Châu thì còn thiếu tới 2 tuổi!
Nghe chuyện mọi người (mà toàn là các nhà trí thức cỡ "nhỡ" trở lên cả) chỉ còn biết lắc đầu.
II- BÀN LUẬN
Tôi hiểu rằng VTV là Đài truyền hình trung ương phát sóng cả nước. Không thể bất kỳ ai đưa cáo phó đến cũng nhận đăng được. Nếu thế có mà phải thành lập riêng một kênh chuyên đăng cáo phó! Thành thử phải đặt ra nguyên tắc phân loại. Chọn những người có 45 năm tuổi Đảng chính là một nguyên tắc phân loại như thế. Vấn đề chỉ còn là nguyên tắc phân loại ấy có hợp lý hay không mà thôi.
Mới nghe qua thì thấy rất ổn. Những đảng viên lâu năm và cán bộ cao cấp được ưu tiên là phải.
Song nếu nghĩ kỹ sẽ thấy không ít điều bất ổn trong đó.
Điều bất ổn thứ nhất là ở chỗ nguyên tắc phân loại này phát huy một nét xấu của văn hoá truyền thống Việt Nam hình thành từ thời phong kiến đến nay - đó là tính đẳng cấp.
Thời phong kiến đẳng cấp vua chúa quý tộc luôn nắm mọi độc quyền ưu tiên trong xã hội.
Thời kỳ bao cấp cái tính đẳng cấp mà cha ông chúng ta đã làm cách mạng để cố gắng xoá bỏ ấy vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức như quyền cấp phát nhà ở (biệt thự hay chung cư) quyền cấp xe volga (đen hay trắng) tem phiếu thực phẩm (mua ở cửa hàng Tông Đản - một cửa hàng chuyên bán thực phẩm cho cán bộ cao cấp ở phố Tông Đản gần Ngân hàng Trung ương Hà Nội - hay cửa hàng phường xóm) v.v. Cùng với đời sống khá lên tem phiếu thực phẩm đã từ lâu không còn. Quyền cấp phát nhà gần như cũng đã chấm dứt. Quyền cấp xe riêng thì vẫn còn nhiều vị đã nghỉ hưu rồi mà vẫn khư khư giữ cái xe đen mà nhất định không chịu trả; tuy nhiên cũng thấy đang đưa ra bàn thảo là hay thôi không cấp xe nữa mà trả vào lương...
Riêng cái chuyện chết lạ thay ít thay đổi nhất. Việc phân chia ngôi thứ theo đẳng cấp khi đăng cáo phó khi chôn cất hình thành từ thời bao cấp đến nay vẫn còn nguyên vẹn không suy suyển. Đẳng cấp nào thì được đăng cáo phó thế nào; đẳng cấp nào thì được chôn ở đâu (ở Hà Nội là nghĩa trang Mai Dịch hay Văn Điển ở Tp. HCM là Nghĩa trang Thủ Đức hay Củ Chi). Phải chăng vì người Việt ta quá coi trọng cái chết (đến mức không thể nào thay đổi được) hay ngược lại là quá coi thường cái chết (đến mức xem là không đáng bận tâm chuyện thay đổi)? Hay đơn giản là vì người đã chết rồi thì đâu có thể đấu tranh cho mình được nữa; còn người sống thì đang lúc tang gia bối rối dễ tặc lưỡi cho qua khi tang lễ đã xong rồi thì còn nói làm gì nữa!
Điều bất ổn thứ hai là ở chỗ nguyên tắc phân loại theo đẳng cấp này đi ngược lại một nét tốt đẹp của văn hoá tang lễ truyền thống là tính dân chủ: người Việt Nam bảo nhau: "chết là hết" quan chức hay phó thường dân rồi cũng trở thành cát bụi ghen đua kèn cựa mà làm gì. "Nghĩa tử là nghĩa tận" - mọi lỗi lầm gì cũng được (ít nhất là tạm thời) bỏ qua để cư xử với người chết một cách nhân ái yêu thương nhất.
Điều bất ổn thứ ba là ở chỗ nguyên tắc phân loại theo đẳng cấp này đã vô tình duy trì một nét xấu của văn hoá truyền thống Việt Nam là tính cào bằng: văn hoá nông nghiệp là văn hoá trọng tĩnh đã lọt vào đẳng cấp nào là yên vị ở đẳng cấp đó chứ ít khi bị xáo trộn thay đổi. Quan chức có lỗi thường không bị kỷ luật mà được "chuyển ngang" hoặc "đá lên". Nó không khuyến khích sự phát triển là cái rất cần thiết cho xã hội Việt Nam hiện đại.
III- GIẢI PHÁP
Trước cái chết tốt nhất là ứng xử sao cho bình đẳng dân chủ theo phương châm "nghĩa tử là nghĩa tận".
Song nếu cứ phải lựa chọn phân loại thì hãy lựa chọn phân loại sao cho khuyến khích phát triển.
Không ai chối cãi được rằng VTV là Đài truyền hình của Nhà nước - một nhà nước XHCN của dân do dân vì dân. Do vậy nếu phải lựa chọn để đăng cáo phó thì không nên lựa chọn một đẳng cấp một tầng lớp mà là phải chọn những người có công với nhân dân đất nước. Lựa chọn một đẳng cấp một tầng lớp là lựa chọn tĩnh nó hướng đến sự ổn định còn lựa chọn người có công là lựa chọn động nó hướng đến sự phát triển.
Ai là người có công với nhân dân đất nước? Có phải những người có 45 năm tuổi Đảng không?
Xin thưa: không phải. 45 năm tuổi Đảng là rất đáng quý. Nhưng đó chỉ là chuyện "thâm niên" (đánh dấu thâm niên đó đã có huy hiệu và giấy chứng nhận). Mà "thâm niên" thì không phải là thành tích: Một người có 45 năm tuổi Đảng rất có thể là một người có công với nhân dân đất nước; nhưng cũng có thể là một người chẳng có gì ngoài cái thâm niên 45 năm tuổi Đảng ấy!
Các các cán bộ cao cấp có phải là người có công với nhân dân đất nước hay không? Thường là như vậy nhưng không phải lúc nào với ai cũng là như vậy. Có những người rất hiền lành giao lá cờ nào thì giữ lá cờ ấy nhưng không phất; khi bị nhân dâu truy hỏi Quốc hội chất vấn thì nói quanh co hoặc chống chế rằng tôi bất lực tôi không làm được gì là do lỗi của cơ chế (gần đây có từ mới là "lỗi hệ thống") tôi vô can! Còn với những cán bộ có lỗi lại được chuyển ngang hoặc "đá lên" tệ lắm là cho "hạ cánh an toàn" thì càng không thể nói là có công với nhân dân đất nước được. Không phải ngẫu nhiên mà một hai năm nay báo chí hay nói bóng gió đến việc quan chức Việt Nam chưa học được "văn hoá từ chức"!
Có lẽ chỉ có hai loại có thể xem là "có công":
Thứ nhất là các anh hùng trong chiến đấu và lao động những người được nhận những giải thưởng của nhà nước giải thưởng Hồ Chí Minh. Các cán bộ cao cấp cũng phải được phong anh hùng được trao giải thưởng thì mới xem là người có công lớn được. Các nhà lãnh đạo cao cấp (cao hơn khái niệm "cán bộ cao cấp") của Liên Xô trước đây không phải ai cũng có huân chương Lênin.
Thứ hai là các nhà hoạt động văn hoá khoa học có tác phẩm công trình tên tuổi được thừa nhận trong và ngoài nước.
Trở lại chuyện GS. Cao Xuân Hạo tôi cho rằng ông là một nhà khoa học như thế. Tên tuổi ông được khẳng định bằng sách vở cả trong nước và ở nước ngoài. Mở cỗ máy tìm kiếm Google ra sẽ thấy tên "Cao Xuân Hạo" được nhắc tới khoảng 9.300 lần. Không nghi ngờ gì ông xứng đáng được đăng cáo phó ở Đài truyền hình Trung ương. Không nói ai cũng biết giữa 15 dành cho chương trình "Tạm biệt Vàng Anh" đầy tai tiếng và tốn kém với 1 đăng cáo phó cho một nhà khoa học tên tuổi việc nào đáng làm hơn!
Nhà đài cũng nên xem lại cái giá 30 triệu với 300 ngàn. Chênh lệch vật chất lớn quá rất dễ sinh ra đặc quyền đặc lợi sinh ra tham nhũng. Có công thì được thuởng. Có việc thì phải bỏ tiền ra. Trong nền kinh tế thị trường này mọi thành phần kinh tế nên bình đẳng như nhau. Có như vậy thì đất nước mới phát triển được. Nếu vì chỉ có một đài trung ương mà nhu cầu lớn quá thì có lẽ cũng nên chấp nhận cho mở đài truyền hình tư nhân. Nhà nước cần vượt qua cái mặc cảm lúc nào cũng lo lắng về an ninh chính trị. Trước đây ta cấm "nghe đài địch" (thời những năm 60-80 một cái đài bán dẫn cũng phải đăng ký để quản lý); nay không nhắc đến cấm đoán đó nữa ai nghe BBC thì cứ nghe có thấy sao đâu ngoại trừ việc nhận thức và trình độ dân trí tăng lên. Hoàn toàn có thể cho mở đài truyền hình tư nhân với điều kiện chỉ cho chuyên về giải trí quảng cáo (và đăng cáo phó tất nhiên). Lúc có đối thủ cạnh tranh nguồn quảng cáo chắc hẳn VTV sẽ bớt độc quyền hơn sẽ làm việc tốt hơn và có trách nhiệm cao hơn trước nhân dân và đất nước.
Đọc nhiều nhất
-
Đường Định mệnh (Sự nghiệp/May mắn)
Dẫn nhập: ngày trước cũng tò mò về cái chủ đề chỉ tay, rồi xem tay, rồi tự đọc và tìm hiểu loạn xị cả lên, thực ra kết quả chính là để loè g... -
Phim: Buddha – Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca
Bộ phim Buddha về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ đản sanh đến niết bàn. Bộ phim lấy cảm hứng ( hoặc cũng có thể gọi là được chuyển t... -
Xem phim "Analyze This" của Robert De Niro
Hôm nọ có xem cái phim "Analyze This" của Robert De Niro về xem, thấy vui vui, nay giới thiệu sơ sơ với mọi người... -
Nguyệt Ánh: Chill-out là thương hiệu của tôi
Chủ đề cuộc gặp lần này xoay quanh dự án Nguyệt Ánh Chill-out của Nguyệt Ánh đang được chú ý trên báo chí, trong các forum âm nhạc và cả ở ... -
Nếu không có thực lực, bạn chỉ là kẻ ăn bám
Dựa vào núi núi đổ, dựa vào người người chạy, chỉ có tự dựa vào chính mình mới là đáng tin cậy nhất. Ba mẹ có là ông nọ bà kia đi chăng nữa... -
36 câu hỏi để yêu nhau
20 năm trước, nhà tâm lý học người Mỹ Arthur Aron đã tự soạn ra một bộ 36 câu hỏi, với mục đích khiến cho hai người hoàn toàn xa lạ yêu nhau... -
Hiệu ứng domino và bí quyết tạo lập chuỗi các thói quen tích cực trong cuộc sống
Các hành vi của con người đều có mối liên hệ tương tác lẫn nhau Hãy lấy ví dụ về trường hợp của Jennifer Lee Dukes. Sau hơn 2 thập kỷ, từ k...
Tham khảo
Liên kết web
Phân loại
Báo chí
(55)
Văn hoá
(33)
Tâm lý
(29)
Tán nhảm
(27)
Công nghệ
(25)
Blog
(17)
Xã hội
(16)
Nghề nghiệp
(15)
Phim
(15)
Quora
(14)
Con người
(13)
Kinh doanh
(13)
Nhạc
(13)
Cuộc sống
(11)
Kỹ năng
(11)
Marketing
(11)
Công cụ
(10)
Lập trình
(10)
Lịch sử
(10)
Sách
(10)
Cặp đôi
(9)
Phát triển
(9)
Thiền
(8)
Tình yêu
(8)
Tản mạn
(7)
Sức khoẻ
(6)
Chính trị
(5)
Giáo dục
(5)
Hạnh phúc
(4)
Kim Dung
(4)
Kiếm hiệp
(4)
Mạng xã hội
(4)
Phát triển cá nhân
(4)
Phần mềm
(4)
Tiền tệ
(4)
Tài chính
(4)
Thực hành
(3)
Tâm linh
(3)
Quản lý công việc
(2)
Quản lý thời gian
(2)
Tiếp thị
(2)
Chăm sóc khách hàng
(1)
Làm việc
(1)
Lãnh đạo cá nhân
(1)
Nguỵ biện
(1)
Quản lý cá nhân
(1)
Thương hiệu
(1)
Tình dục
(1)